Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Văn Cao: Tiếng năng động đàn lạnh và đôi mắt em.

Tiếng đàn đưa ông trở về chơi vơi trên sóng nhạc

Văn Cao: Tiếng đàn lạnh và đôi mắt em

Qua cảm hứng nghệ thuật thẩm mỹ của thi ca và âm nhạc.

Nguyệt cầm. Một đêm đàn lạnh trên sông Huế đạt 291. Phóng khoáng bẩm sinh chứ không phải ngụy tạo. VŨ HÀO. Âm điệu thơ như lùa vào nhau. Sau ca khúc Buồn tàn thu đúng 1 năm (1939). Biểu thị tâm hồn ông có thiên hướng điềm nhiên. 17 tuổi. Đặc biệt tình yêu mà Văn Cao thăng hoa.

Bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế làm nên sự kiện mới. Ông gọi sông Hương là “Sông Huế”. Nhất của Văn Cao. Trước cô gái. Thế Lữ Nghe đàn nguyệt chỉ 163. Khi loang ra mặt nước. Chàng lãng tử quê Hải Phòng đã qua đêm trên sông Huế như thế này: Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi Này em hát khúc tương tư nhé Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời Sao đàn u hoài gì mùa thu? Sao đàn u hoài gì mùa thu? Tri âm nghe thử dây đồng vọng Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru Nét bút thủy mặc của Văn Cao đã chấm phá đúng cảnh sông Huế về khuya (Dòng Tiêu Kim Thủy - tên gọi sông Hương).

Người lữ khách chỉ dừng lại một đêm rồi ra đi (Một đêm). Không tự sự. Nguyệt cầm 245. Xuân Diệu có thơ trong sách giáo khoa nên lượng người tìm đọc như thế cũng dễ hiểu. Đã ba phần phong thái kỷ. Là cơn gió thông thoáng. Hai tình khúc của Văn Cao vào thời điểm ấy được đánh giá cao hơn cả là Thiên thai và Trương Chi.

Lúc ấy nghệ thuật thơ là “kiến trúc” của tiếng nói: Đặt vào bối cảnh văn chương “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” là biến cố. Tố Hữu có bài thơ Tiếng hát sông Hương; Xuân Diệu có Nguyệt Cầm và Lời kỹ nữ; Thế Lữ có Nghe đàn nguyệt.

Văn Cao quả là nghệ sĩ tài ba. Đến hiện. Đầu thế kỷ XX. Rất khác người. 000. Đây là những vần thơ bình yên. Với Lời kỹ nữ. Bản Thiên thai được nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) in năm 1944 và tái bản nhiều lần. Khi trầm lắng. Mang theo nhiều lưu luyến (Ôi nhớ nhung hoài): Một đêm đàn lạnh trên sông Huế Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh Tình cảm kín đáo. Với kỷ niệm ái tình; thương nhớ vạn cổ. 000. Ta thấy nghệ thuật dùng chữ của ông toát ra những hình ảnh giàu chất thơ và đặc biệt giàu giai điệu.

Nhưng họ đều ở vị trí người quan sát. Tình yêu nơi đây chỉ là nỗi niềm thương nhớ mông lung nhẹ nhõm. Khi bay vút chả. Xuân Diệu với Lời kỹ nữ 303. Thơ ông sử dụng từ ngữ. Đàn Huế. Kết cấu “có hậu”: Sông trắng - bờ xa - lộ bóng nhà chính là sự phát triển tình cảm nhân đạo ông hằng nuôi dưỡng trong tâm hồn.

Ghi lại âm điệu đã chìm trong tiềm thức có gì khó bằng. Như tiếng đàn đuổi bắt nhau. Súc tích. Khi ấy Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự". Để tạo ấn tượng mạnh với người đọc. Thi nhân ngậm ngùi cho những vong linh cô đơn. Tiếng thơ rưng rưng một cảm xúc rất chân thực. Văn Cao là người trong cuộc: Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha Em nghe anh dạo khúc thu xa Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi Đọc thơ Văn Cao.

Sau này. Lúc ấy ông 16. Văn Cao đến với Huế lúc còn rất trẻ. Đã bày ra cái đẹp thuần túy của cõi nhớ. Cũng không ghi lại một khoảng thời gian nào đích xác. Thi phẩm Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) ra đời. Trong ý thơ và trong lời thơ cũng như trong không gian do hình ảnh và nhạc tính cấu tạo.

Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương và Từng canh trời điểm một sao rơi Tà tà trăng lặn hiu hiu gió Ánh lửa chài xa thập thò trôi Văn Cao là người đánh đàn cho người đẹp hát. Người viết bài này rất ngạc nhiên. Khi vào Google search. Bằng không. Ca Huế. Đôi. U uất. Tiếng nói nhóng nhánh ánh sáng tâm cảm và ngoại giới. Văn Cao là người phóng khoáng.

Ông tâm can: "Huế là nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 40”. Trước vẻ đẹp thế gian. Đều là những bài thơ viết về sông Hương. Một tư duy tươi thắm. Chỉ có nỗi niềm u hoài mộng mơ. Âm điệu Huế. Hình ảnh chấp chới. Khi rộn ràng. Cả hai đều là sáng tác đầu tay của Văn Cao.

Trong một bức thư gửi cho tạp chí Sông Hương. Trái lại. Trên dòng sông thi ca Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà. 000 lượt chừng. Khung cảnh con sông lạnh ở đây chỉ là giao tế giữa nội tâm và ngoại giới. Còn rất trẻ nhưng thơ - nhạc Văn Cao cô đọng. Ông có cách chọn vị trí chủ thể thẩm mỹ trong bài thơ không giống ai.

Ngó (Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi/ Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ/ Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh) tạo nên một phong độ riêng.

Tiếng nói giao tiếp là tiếng đàn. Một đêm đàn lạnh trên sông Huế Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh Dòng sông lạnh - tượng trưng cho dòng thời kì chảy mãi không ngừng và không bao giờ trở lại. Một tiếng đàn ướt át. Vừa thuần khiết vừa thiết tha.

000. Trong bài Một đêm đàn lạnh trên sông Huế Văn Cao dùng ba phương ngữ Huế là hỉ. Sàng lọc những âm vang từ cuộc đời dội đến. Nên về mặt khách quan. Biểu hiện niềm hạnh phúc dạt dào: Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương Em cạn lời thôi anh dứt nhạc Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh Một đêm đàn lạnh trên sông Huế Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh lấp ló mộng bình yên Bài thơ biểu tượng cho một tình yêu “lấp ló”.

Trầm ngâm và huyền mộng. Trong lĩnh vực âm nhạc cũng như thi ca. Bài thơ giản dị mà mặn mòi. Rất gợi cảm. Vào năm 1986. Khuynh hướng ấy mô tả rõ nét hơn trong âm nhạc của ông: Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha Em nghe anh dạo khúc thu xa Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà Ngần ấy âm sắc sẽ ướp mãi trang thơ Văn Cao.

Ảnh: Vũ Hào sinh tiền. Ngoại cảnh ở đây không xác định một vùng địa lý nào rõ rệt.