Sân chầu Châu Ê đi dễ khó về Trị vì được một thời kì, vua Khải Định đã lo nghĩ đến việc tạo dựng sinh phần cho mình. Sau khi tham khảo nhiều tấu trình của các thầy Địa, Khải Định chọn triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) làm vị trí để xây cất lăng tẩm. Tọa lạc tại vị trí này, lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm "Tả thanh long” và "Hữu bạch hổ”; có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm "thủy tụ”, gọi là "minh đường”. Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ - vừa là hậu chẩm, vừa là "mặt bằng” của lăng - thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi Ứng lăng. Để có kinh phí thực hiện việc xây dựng lăng, vua Khải Định tăng thuế điền 30% trên cả nước. Kinh phí lớn nhất là phải mua vật liệu từ nước ngoài như: Sắt, ximăng (mua từ Pháp); sành ngang chở từ Hà Đông vào, và sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai thủy tinh phải nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản sang... So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có một diện tích rất khiêm tốn: 117m x 48,5m nhưng cực kỳ công phu, tốn kém và kéo dài đến 11 năm. Tiền quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy với sự trưng tập nhiều thợ nghề và nghệ nhân nức tiếng khắp cả nước như: Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng... Bấy giờ, vùng núi Châu Chữ có khe Châu Ê chảy qua, là vùng rừng thiêng, nước độc, đầy sơn lam chướng khí. Tù đọng, binh lính và thợ thuyền lên làm việc ở đây đã bị bệnh, bị thương và chết khá nhiều, có nhẽ thành thử mà ở Huế lúc bấy giờ có câu ca dao: Châu Ê ơi hỡi Châu Ê/ Khi đi thì có, khi về thì không. Vua Khải Định Lâu đài châu Âu và chuyện Cửu Tánh vẽ rồng bằng chân Tổng thể của lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao với 127 bậc cấp như muốn trình bày khát vọng tự chủ của ông vua bù nhìn - Khải Định. Ở đây sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique... Đã để lại dấu ấn trên những công trình, điều này ta có thể thấy những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ; trụ biểu dạng stoupa của nhà Phật; hàng rào như những cây thập ác khẳng khiu; nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể... Thoạt nhìn, lăng Khải Định giống như một tòa lâu đài ở châu Âu. Các nguyên liệu truyền thống của bản địa như gỗ, đá, gạch, vôi ở đây chỉ là một số lượng không đáng kể. Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định. Lên lăng Khải Định, vào thăm điện Khải Thành, nhìn lên trần nhà thấy một bức tranh rồng sống động, có thể nói đây là một tuyệt phẩm. Tuy vậy, mấy ngờ đâu, bức tranh hoành tráng đó được vẽ bằng chính đôi chân của người họa sĩ tên Tánh. Chuyện kể rằng, sau khi lăng đã xây xong, chỉ còn trần nhà của điện Khải Thành là chưa trang trí. Theo ý của nhà vua, thì trần điện này phải được trang trí bằng một con rồng năm móng ẩn trong mây. Ý muốn đó của nhà vua chỉ có Cửu Tánh mới vẽ được, vua cho đòi Cửu Tánh đến và giao nhiệm vụ này. Đám tang vua Khải Định được rước đi qua vùng núi Châu Ê Ảnh: Tư Liệu Một hôm vua lên xem tình hình của việc trang trí lăng thế nào, vào đến điện thấy Cửu Tánh đang nằm trên một cái sàn bằng tre, lại chỉ mặc độc nhất vô nhị một chiếc quần đùi, hai chân quắp lấy hai cây bút lớn, vừa nhúng vào chậu phẩm màu bên cạnh, vừa vẽ những đường nét mây vờn, rồng hiện. Lúc này, Cửu Tánh nhìn xuống thấy vua đến nhưng ra chiều làm lơ không biết. Vua Khải Định thấy ông ăn mặc hở hang, lại dùng chân vẽ rồng, một hình tượng tượng trưng cho nhà vua, nên quát: - Vì răng mi thấy trẫm mà không xuống lạy, lại dám dùng chân để vẽ rồng, như rứa là tội chém đầu. Cửu Tánh vẫn không dừng tay, ông nói vọng xuống: - Dạ bẩm Hoàng thượng, hạ thần mô dám. Hạ thần không biết đại vương giá lâm, với lại bức tranh này lớn quá nên không thể dùng tay để điều chỉnh, do đó hạ thần phải dùng chân, mong chúa thượng tha chết cho. Vua Khải Định nhìn lên thấy bức tranh sắp hoàn chỉnh và lại rất đẹp nên dịu giọng: - Thôi ta tha chết cho mi, nếu kẻ khác thì ta lấy đầu rồi. Bằng óc sáng dạ, sự chọn lọc tinh tế và đôi tay tài tình khéo léo, người nghệ nhân xưa đã tạo cho lăng Khải Định thành một công trình nghệ thuật điển hình trong buổi giao thời của kiến trúc Đông - Tây, ở đó người xem như cảm thấy nhẹ nhõm hơn trước một khu lăng tẩm được xây dựng theo lối kiến trúc kim - cổ phối hợp. Bít tất đều bắt đầu từ những ý muốn kỳ quặc của ông vua thích "thâu tóm điều hay, cái lạ”.
[Bài 1: Nghiệp đế và ngôi nhà vĩnh hằng sau cái chết] [Bài 2: Nơi yên nghỉ của niềm tin] [Bài 3: Hành cung thứ hai của vị vua thi sĩ] Xuân Vinh |