Cho nên, UBND thành phố vừa có chủ trương di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh thành. Đây không phải là một chủ trương mới mà từ năm 2002, thành thị đã lên kế hoạch di dời 1.402 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra các khu công nghiệp và vùng phụ cận. Đến nay, vẫn có khá nhiều cơ sở chưa di dời. Ngoài ra, theo quyết định di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2003, hiện thành thị vẫn còn hai cơ sở sinh sản lớn là xi-măng Hà Tiên và xưởng đóng tàu Ba Son chưa thực hiện di dời. Tuy nhiên, sau một thời kì di dời ra vùng lân cận thì rất nhiều doanh nghiệp trong diện di dời trước đây lại nối gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại địa điểm mới. Như trường hợp 31 cơ sở sản xuất giặt, nhuộm, thời kì gần đây liên tục xả khí thải, nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép gây ô nhiễm khu dân cư thuộc phường Đông Hưng Thuận, quận 12... Mục tiêu đặt ra là đến ngày 15-9 tới đây, Sở Tài nguyên và Môi trường và UBND các quận, huyện phải thẩm tra, lên danh sách các cơ sở sản xuất không phù hợp quy hoạch và gây ô nhiễm môi trường buộc di dời vào cụm công nghiệp giao hội. Và sẽ tập trung di dời trước các cơ sở sản xuất trong khu dân cư gây ô nhiễm nghiêm trọng và không phù hợp quy hoạch. Các cơ sở sản xuất nằm trong khu dân cư nhưng không gây ô nhiễm, hiệp quy hoạch và các cơ sở sinh sản thuộc bốn nhóm ngành trọng điểm của đô thị (cơ khí chế tác, điện tử - công nghệ thông báo, hóa chất - cao-su - nhựa, chế biến lương thực thực phẩm) có thể được giữ lại địa điểm bây giờ. Câu hỏi đặt ra ở đây là đã hơn mười năm trôi qua, việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vẫn chưa hoàn thành được. Qua khảo sát của cơ quan chức năng thì thấy có nhiều căn do. Trong đó cốt tử là do một số doanh nghiệp mong chờ, ỷ lại quốc gia. Các cơ quan quản lý về môi trường chưa có biện pháp xử lý triệt để. Các dự án đầu tư mới đều có sự giám định về môi trường, nhưng dự án đi vào sinh sản chưa có sự thẩm tra, đánh giá. Các chỉ tiêu môi trường doanh nghiệp cam kết trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật cũng không được quý trọng. Ngoài các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải di dời, vẫn còn một số lượng lớn các cơ sở khác cũng không đảm bảo vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất. Thành thử, cần đấu rà soát, đánh giá, thẩm định kỹ càng. Bên cạnh đó, việc di dời đến địa điểm nào cũng là cả một vấn đề. Địa điểm hấp thu cốt yếu là các khu công nghiệp hiện hữu. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, quy mô sinh sản nhỏ không hợp di dời vào khu công nghiệp vì giá cho thuê đất tại các khu công nghiệp cao không hợp cho cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Diện tích cho mỗi đơn vị thuê ít nhất là 5.000 m2, trong khi nhu cầu của các cơ sở này chỉ từ 200 đến 1.000 m2. Các chính sách tương trợ di dời đề ra trong thời gian qua đã góp phần tháo gỡ khó khăn về tài chính cho các đơn vị di dời. Tuy nhiên, việc tương trợ chỉ đạt một phần rất nhỏ so với nhu cầu vốn, do việc di dời của các doanh nghiệp phải đầu tư và giải quyết lớn hơn nhiều. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về vốn đầu tư di dời. Công tác điều hành khai triển di dời của Ban chỉ đạo di dời của các quận, huyện chưa đồng đều. Một số các quận, huyện còn xem nhẹ công tác di dời nên chỉ giao khoán cho một phòng, ban của quận thực hành. Vì thế, để giải quyết dứt điểm việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường cần giải quyết tốt những bất cập, thiếu sót đó. Mặt khác, để việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm không trở nên việc di dời ô nhiễm từ địa bàn này sang địa bàn khác, thành thị cần triển khai nhiều chương trình giúp doanh nghiệp cũng như cộng đồng hướng đến sinh sản và tiêu thụ bền vững. Cụ thể như tư vấn tương trợ doanh nghiệp đổi mới, cải tạo công nghệ sản xuất; tương trợ vốn để doanh nghiệp đầu tư hệ thống xử lý chất thải; trao chứng nhận nhãn xanh và doanh nghiệp xanh cho doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường; phát triển phong trào vận động cộng đồng ưu tiên tiêu dùng sản phẩm xanh để tạo động lực khuyến khích doanh nghiệp tự giác hơn nữa trong việc chấp hành Luật Bảo vệ môi trường. HOÀNG DUY |